Tín dụng dễ dãi và lạm phát
Trong  mấy năm qua, tình hình vay tín dụng trong nước có nhiều nới lỏng, thủ  tục khá dễ dãi. Theo Báo cáo năm 2011 của Công ty tài chính quốc tế IFC  thuộc Nhóm Ngân hàng thế giới, thứ hạng tín dụng của Việt Nam trong so  sánh trên thế giới đã tăng từ thứ 30 lên thứ 15. Nhưng tín dụng dễ dãi  không đồng nghĩa với việc sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả. Một số doanh nghiệp  đã dùng vốn vay "dễ" để thực hiện các dự án có hiệu quả không chắc  chắn, kể cả đầu tư vào địa ốc và thị trường chứng khoán. Một số không  nhỏ trong số này có tính chất đầu cơ chứ không phải đầu tư dài hạn.
Có  thể nói, thời gian gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng nhờ  vào tín dụng từ hệ thống ngân hàng. Dường như tăng trưởng của Việt Nam  thời gian qua chủ yếu dựa vào vốn vay, do đó tăng nợ chứ không phải tăng  vốn, khi nền kinh tế chỉ có tỷ lệ tiết kiệm dưới 30% GDP nhưng đầu tư  luôn đạt khoảng 41-42% GDP mỗi năm. Số chênh lệch khoảng 10% GDP phải xử  lý thông qua vay nợ trong và ngoài nước, làm cho tổng dư nợ quốc gia và  dư nợ của Chính phủ cũng đang ở mức đáng báo động.
Các doanh  nghiệp vừa và nhỏ do khả năng tích lũy thấp, nên các phương án đầu tư  thường cũng chủ yếu dựa vào vay tín dụng của các ngân hàng và tổ chức  tín dụng dưới nhiều hình thức.
    
        
              | 
        
        
            | Tính đến hết năm 2010, dư nợ cho vay phi sản xuất chiếm 18,7% tổng dư nợ toàn ngành, trong khi sản xuất "đói" vốn | 
        
    
Một  nền kinh tế tăng trưởng dựa vào tăng nợ chứa đựng những bất ổn, trong  đó kể cả đối với doanh nghiệp và cũng như với nhà nước. Phó Chủ tịch khu  vực châu Á - Thái Bình Dương của Credit Suisse, ông Jose Isidro N.  (Lito) Camacho, tại Hội nghị ADB vừa qua cho rằng: "Bao giờ tốc độ tăng  trưởng tín dụng cao cũng đi đôi với rủi ro".
Vì thế, nhìn chung  tốc độ tăng dư nợ tín dụng lên cao quá mức đang làm cho tổng phương tiện  thanh toán M2 tăng lên nhanh chóng, gây nguy cơ lạm phát cao cho nền  kinh tế[1].
Ngân hàng và tín dụng thắt chặt
Trước  những diễn biến xấu của thị trường trong và ngoài nước, gây lạm phát  cao, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11 với hàng loạt giải pháp nhằm  kiềm chế lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, mọi giải  pháp đều có tính hai mặt của nó. Nghị quyết 11 nêu rõ, cần thực hiện tín  dụng chặt chẽ, nhất là với chứng khoán và địa ốc, đồng thời lại khuyến  khích các tín dụng phục vụ sản xuất trực tiếp, bảo đảm tốc độ tăng  trưởng tín dụng dưới 20% và tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng  15-16%. Đây là quyết sách quan trọng, nhưng không thực hiện nhanh được  do một số khoản vay tiếp tục đến kỳ giải ngân. Vì thế, Ngân hàng Nhà  nước (NHNN) tích cực giảm tín dụng cho các lĩnh vực phi sản xuất, mua  sắm hàng xa xỉ,...
Tuy nhiên, đến đầu năm 2011, nhiều ngân hàng  chủ yếu vẫn là cho vay phi sản xuất. Chẳng hạn như, Ngân hàng Phương Tây  có dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất tới 52,2%; ngân hàng TMCP Sài  Gòn Hà Nội cũng có mức dư nợ cao 47%; ngân hàng TMCP Đông Nam Á 21%,  ngân hàng TMCP Nam Việt 41%,... Nếu nay thắt chặt nhanh tín dụng có thể  sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng này.
Nhìn tổng thể,  theo báo cáo của NHNN, tính đến hết năm 2010, dư nợ cho vay phi sản  xuất khoảng 431.000 tỷ đồng, chiếm 18,7% tổng dư nợ toàn ngành, trong  đó, 18 ngân hàng có dư nợ lĩnh vực này từ 25% trở xuống (tính trên tổng  dư nợ của ngân hàng); còn là 24 ngân hàng có dư nợ từ 25% trở lên. Điều  nghiêm trọng là, đến cuối tháng 12/2010, dư nợ của năm ngân hàng thương  mại nhà nước (Agribank, MHB, Vietinbank, BIDV và Vietcombank) là  1.097.302 tỷ đồng, chiếm 58% dư nợ của cả hệ thống ngân hàng thương mại  trong nước; riêng dư nợ của Agribank đã chiếm 53% dư nợ của 37 ngân hàng  TMCP còn lại.
Những con số này đã nói rõ là tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam có nguồn gốc từ chính các ngân hàng lớn nhất.
Tuy  nhiên, khi thắt chặt tín dụng, thì các dòng tiền chảy vào ngân hàng  cũng khan hiếm, nhất là các ngân hàng nhỏ, thanh khoản kém. Do vậy, các  ngân hàng đã phải nâng cao lãi suất huy động, và vì thế lãi suất cho vay  cũng tăng cao. Khi NHNN ấn định trần lãi suất huy động không quá 14%,  thì thực tế, do "khát" vốn, nhiều ngân hàng đã có những thủ thuật để  lách, đưa lãi suất huy động lên trên 14% khá nhiều, đến 17-18%. Hệ quả  là lãi suất cho vay đã bị nâng lên trên 20%, gây khó khăn cho các doanh  nghiệp.
Nỗi khó khăn về vốn của DN vừa và nhỏ
Một  khi lãi suất được dâng cao, mọi doanh nghiệp đều phải tính toán lại  phương án sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng bản chất là doanh nghiệp  vừa và nhỏ, tức là quy mô vốn nhỏ, tuy cộng đồng doanh nghiệp này có thể  tham gia thu hút nguồn lao động đa dạng và sản xuất ra các sản phẩm và  dịch vụ đa dạng, với giá cả hợp lý, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Hơn  nữa, tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên vốn sản  xuất và doanh thu đều thấp, chỉ đạt bình quân 2-3%, so với mức 4-6%  chung của cả nước.
    
        
              | 
        
        
            | Theo điều tra của Bộ KH&ĐT, có tới 1/3 doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tiếp cận nguồn vốn vay. | 
        
    
Cũng  theo điều tra thống kê hằng năm với các doanh nghiệp mấy năm gần đây  (2006-2008), có đến 30% (năm 2006), 28% (năm 2007) và 26% (năm 2008)  doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài nhà nước bị lỗ.
Vậy  trong điều kiện lãi suất vay trên 20%, chỉ một số ít công ty mới có thể  có hiệu quả kinh doanh cao có thể vay được. Để hoàn thành công trình  đầu tư và dự án dở dang, một số doanh nghiệp đành chấp nhận lãi suất vay  cao trong ngắn hạn, nhưng nhìn chung, nhiều doanh nghiệp khó trụ được  lâu dài với mức lãi suất cao này.
Hơn nữa, các điều kiện cho vay  của các ngân hàng cũng rất khó khăn [2] để tiếp cận nguồn vốn, dù lãi  suất cao. Theo điều tra của Bộ KH&ĐT, có tới 1/3 doanh nghiệp vừa và  nhỏ không thể tiếp cận nguồn vốn vay, nên dầu tư và kinh doanh cầm  chừng và 1/3 tuy có tiếp cận được nhưng gặp khó khăn. Vậy giải pháp là  gì?
Trước hết, với vai trò dẫn dắt của mình, Nhà nước cần tập  trung hỗ trợ bảo lãnh vốn vay cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu  phụ thuộc và bản chất của dự án có khả năng thu hồi vốn và mang lại hiệu  quả xã hội.
Theo Ngân hàng Phát triển Việt Nam, việc bảo lãnh  tín dụng vẫn được tiếp tục và trở thành một chức năng của ngân hàng bên  cạnh việc cho vay các nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước. Việc chọn đối tượng  bảo lãnh chủ yếu là các DN nhỏ và vừa là phù hợp với năng lực của ngân  hàng cũng như thực tế yêu cầu phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam.  Nhà nước cần căn cứ vào tiến bộ trong việc kiềm chế lạm phát để từng  bước hạ lãi suất cho vay, tạo điều kiện sản xuất kinh doanh bình thường,  vì điều này mang lại lợi ích dâu dài cho nền kinh tế.
Một số ý  kiến cho rằng, Nhà nước nên khống chế trần lãi suất cho vay và từng bước  hạ xuống để các doanh nghiệp có điều kiện lực chọn các phương án sản  xuất kinh doanh thích hợp nhất, nhằm duy trì và phát triển sản xuất. Hơn  hết, các công cụ kinh tế cần được sử dụng nhiều hơn để hướng ngân hàng  vào các khoản vay mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế.
Đối với  các doanh nghiệp, vấn đề là cần lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh  phù hợp hơn với điều kiện vay vốn khó khăn để bảo đảm hiệu quả kinh  doanh, bởi lẽ đến 70% doanh nghiệp còn dựa chủ yếu vào các nguồn vốn  vay. Do đó, với các nguồn vốn vay lãi suất cao hiện trên 20%, các doanh  nghiệp cần lựa chọn phương án đầu tư và kinh doanh có hiệu quả cao nhất  để có thể sử dụng các nguồn vốn này, hoặc tạm thời sử dụng một số vốn  vay lãi suất cao để mua các trang thiết bị cần thiết nhất, tránh đầu tư  tràn lan.
Với đa số các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về huy  động nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh đang sử dụng nhiều cách thức,  biện pháp được để tháo gỡ như kêu gọi liên doanh, liên kết giữa các  thành viên trong hội để đầu tư vào các dự án khả thi; giới thiệu để các  thành viên của hội vay vốn ngân hàng như lãi suất hiện nay nhưng được  trả nợ theo cách thức khác nhau phù hợp với điều kiện từng doanh nghiệp.  Cũng nên huy động thêm các nguồn vốn khác từ nội bộ cán bộ nhân viên  của doanh nghiệp và các hình thức liên kết khác để cùng nhau vượt qua  giai đoạn khó khăn, với những ưu đãi nhất định dành cho họ lâu dài sau  này.
    
        
            | 
             Thiếu  vốn cộng với tình trạng vốn giá cao như hiện nay các doanh nghiệp Việt  Nam đang phải đối mặt là một vấn đề mang tính hai mặt. Một mặt, nếu xét  trong ngắn hạn sẽ là khó khăn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của  doanh nghiệp, nhưng mặt khác, nếu xét trong dài hạn, có lẽ lại là "động  lực" giúp doanh nghiệp phải có chiến lược phù hợp để cấu trúc và sử dụng  đồng vốn hiệu quả. 
            Những  vấn đề này sẽ được các CEO, các CFO của các doanh nghiệp lớn Việt Nam  và các chuyên gia kinh tế, chuyên gia tư vấn và tài chính đến từ các tổ  chức tư vấn, tổ chức tài chính hàng đầu trong và ngoài nước cùng nhau  chia sẻ tại Hội nghị thường niên Vietnam CFO Summit năm 2011 do Vietnam Report và báo VietNamNet phối hợp tổ chức ngày 10/6/2011 tại khách sạn Sheraton, Hà Nội với chủ đề "Tối ưu hoá cấu trúc vốn và hiệu quả huy động vốn - Tận dụng cơ hội bứt phá trong giai đoạn bất ổn". 
            Chi tiết chương trình tham khảo tại www.vietnamreport.net. 
             | 
        
    
[1] Bên  lề Hội nghị thường niên Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) ngày 3/5 đã  ghi nhận nhiều cảnh báo của giới chuyên gia trong và ngoài nước với tình  hình tín dụng luôn tăng cao tại Việt Nam thời gian qua. Tại Hội nghị,  Thống đốc NNHH Nguyễn Văn Giàu cho biết, đến nay, tổng dư nợ của hệ  thống tín dụng đang bằng khoảng 1-2 lần GDP Việt Nam. So với các nước,  tỷ lệ này là khá cao, một số nước chỉ khoảng 0,6-0,7 GDP. Nguyên nhân,  theo Thống đốc, do đây là kênh chủ yếu cấp vốn cho nền kinh tế.
Phó chủ tịch khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Credit Suisse, Ông  Jose Isidro N. (Lito) Camacho cũng nhấn mạnh rằng: "Nếu các tổ chức tín  dụng hướng sản phẩm cho vay, tín dụng vào khu vực sản xuất chứ không  phải những lĩnh vực mang tính đầu cơ như chứng khoán, bất động sản thì  tôi nghĩ rằng họ có thể trụ vững được".
[2] Các  doanh nghiệp ở nhiều tỉnh thành cho rằng, vướng mắc khi vay vốn sản  xuất, kinh doanh, tập trung vào thủ tục vay vốn còn rườm rà, nhất là thủ  tục tín chấp, quy định về chứng thư bảo lãnh; thời hạn cho vay vốn đối  với các hộ sản xuất nông nghiệp có những điểm chưa phù hợp với chu kì  sản xuất; nguồn vốn vay trung và dài hạn còn thiếu...
Theo Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam