Giải trí
Hoàng đế dời đô ( Fiên bản Hiện đại )

Mùa hạ, năm Minh Chiết thứ 5, Đại Lừa dân quốc ồn ĩ chuyện dời đô về mạn núi Vi Bà. Cáo thị dán đầy thành, ngập phủ cho dân đen đến xem. Sự ồn ĩ lại càng tợn hơn. Hoàng đế Đại Lừa Nông Đức Nổ nhân thấy sự trọng của việc dời đô mà tuyên chiếu rằng:

Thế thiên... hưởng lộc, Trẫm tuyên chiếu rằng: Nay xét thấy kinh thành cũ nhỏ bé, truyền từ liệt tổ, liệt tông cũng tròn nghìn năm. Mọi nhẽ rất bất cập, bẩn thỉu, bê tha, đến nay. Hạ nắng chói chang, mưa to cây đổ, Xuân thời nhếch nhác rêu phong, Thu hanh nồng bụi bẩn, Đông lạnh cắt tim gan. Nhẽ đất trời vậy là điềm gở. Lại thêm ngựa xe đầy đường, phủ thất nghênh ngang, dân đen đông đàn nhung nhúc.Thật không phải chốn đế vuơng ngự trị. Làm gì cũng không thuận, kể cả việc phòng binh. Ấy là nhẽ thế thời, nên phải khác. 

Nay mạn núi Vi Bà là vùng đất cao nhưng bằng phẳng, thật là chốn định đô bền vững muôn đời. Trước có sông Đáy Đay, sau có núi Vi Bà, hữu có gò Xanh Khoang, tả có đồi Ka Chín. Thật, phong thuỷ không gì bằng. Lại thêm theo thuyết xưa mạn Vi Bà chính là đầu rồng, khác hẳn với kinh đô hiện tại là đuôi. Thăng Long toạ đầu rồng tất mới bay cao được. Việc dời đô là thuận theo ý Trấm, có xét theo tấu chương của bộ Hộ, bộ Công. Nay Trẫm giao cho tể tướng Nguỵ Tân Dung giao - phối, đôn đốc cùng bộ Hộ, bộ Công mà làm cho nhanh, mọi nhẽ.

Phụng chiếu, tể tướng Nguỵ Tân Dung giao - phối, đôn đốc bộ Hộ, bộ Công vẽ bản đồ, lập đồ bản, đắp mô hình quách thành, hào rãnh, hơn tháng thời xong, bày la liệt sân rồng cho triều đình bàn luận. Thiết triều nhiều hôm không ở trong cung mà lại ở sân rồng. Cãi nhau chí tử, không ai chịu ai. Thấy nguy, tể tưởng Nguỵ Tân Dung cho mời thêm bọn học thuật, chiêm tinh, tử vi, bói toán, phong thuỷ luận thêm, cũng không ra nhẽ. Lại gọi bọn Đông các đại học sĩ về thuật thiết kế, quy hoạch  hỏi thêm, cũng chả ăn thua. Thế nên đem hết ra cổng thành gọi dân đen đến…góp ý nhưng chả ma nào há mồm. Bắc loa đứng trên thành hỏi vọng sao, sao thì thấy dưới đồng thanh: không nghe, không thấy, không biết. Hỏi thêm thì lại nghe: không được gì, ứ nói đâu.

Vài đại thần trong triều xì xào, vận nước mạt rồi chăng? Đến lũ dân đen mạt hạng cũng không thèm mở mồm. Nhiều vị bảo có mở mồm thì cũng ích lợi gì. Vị nào đó còn hùng hồn, bịt mồm mãi nên giờ dân đen câm hết, có há ra thì tuyền những sự châm chích, nhiêu khê. 

Hoàng đế Nông Đức Nổ thấy sự chẳng hay, truyền tể tướng Nguỵ Tân Dung, các đại thần Cơ mật viện, thượng thư bộ Hộ, bộ Công ngoạ triều bàn kín. Ngài phán, bề tôi phải lấy xã tắc làm trọng, đại cục làm cơ bản, đồng tâm, hiệp lực lo việc dời đô. Rồi tuỳ công lao mà ban thưởng, ai cũng có phần. Riêng lũ dân đen, mặc xác. Có tham luận được đại sự thì tốt, không thì còn…tốt hơn. Lời Ngài là vàng ngọc, ai nấy nhất tuân. Thay luôn cho thánh chỉ.

Mạn Vi Bà chẳng chốc trở nên hoa lệ. Kinh thành chưa xây nhưng phủ thất, điền trang quan lại nhớn bé mọc lên như nấm. Bọn gian thương, cơ hội, nịnh thần cũng nhao theo vơ vét đầy túi càn khôn. Lũ dân đen thi nhau bán ruộng vườn lấy bạc vụn, nhảy múa, hát ca, cờ bạc, rượu chè, đá gà ngày đêm huyên náo. Thật là đất phát lộc, phồn hoa.

Mùa xuân, cuối năm Minh Chiết thứ 5, triều có biến. Hoàng đế Nông Đức Nổ băng. Ngài đi vội bởi chứng bại não do tà khuẩn thâm nhập, không trối trăng, di chiếu. Bọn Nguỵ Tân Dung và các đại thần Cơ mật viện đưa Thái tử Nông Thông Nòng, mới 13 tuổi lên kế ngôi để ổn định triều chính, tránh lỗ hổng ngai vàng, trừ hoạ giành tranh ngôi báu.

Thái tử Nông Thông Nòng lên ngôi, đổi niên hiệu thành U Minh. Mùa xuân, năm U Minh thứ 1, ngài đăng cơ, thiết triều, ra thánh chỉ: Tiên đế băng vội, ta còn nhỏ tuổi, xã tắc lại nhiều việc trọng, e không kham hết. Nay mọi nhẽ cứ thuận theo lối cũ mà làm. Riêng việc dời đô lên mạn Vi Bà ta quyết định bãi bỏ, mà chuyển lên vùng Chí Linh. Ở đó sinh khí hội tụ, lại là chỗ ta được thân mẫu sinh ra, ngày đêm luyện chữ, múa đao kế nghiệp. 

Quan lại triều thần há mồm, trợn mắt, nhao lên phản đối ồn ĩ. Ngài bực dọc, ý trẫm đã quyết, kẻ nào bất tuân, trảm!

Bãi triều, tể tướng Nguỵ Tân Dung nán lại, phân trần, làm thế là trái ý tiên đế, không thuận lòng triều thần. Ngài cười giòn, ngươi làm tể tướng đầu triều, phò tá ta giữ gìn ngôi báu mà không hiểu chính sự. Xưa đến nay mọi nhẽ lớn, từ liệt tổ, liệt tông cho đến tiên đế tuyền quất ngựa ghìm cương rẽ trái nhưng đầu lại ngoái sang phải và cuối cùng là…đi thẳng, không hiểu sự đó là sao?

Nguỵ Tân Dung nghe xong, rạp mình vái lạy: hoàng thượng thánh minh, rồi lui khỏi chính điện. Hoàng đế Nông Thông Nòng cười mỉm, vịn vai giám quan, thì thầm: soạn chỉ cho ta dời đô về vùng Trung Nguyên. Nhá!